Nguyễn Văn Trỗi sinh ngày 01/02/1940 tại làng Thanh Quýt, nay là xã Điện Thắng Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Năm 15 tuổi anh theo người nhà đến Đà Nẵng lao động và học thêm nghề may.
Năm 1956, Nguyễn Văn Trỗi vào Sài Gòn đạp xích lô và làm thợ điện. Sau đó trở thành công nhân nhà máy điện Chợ Quán.
Năm 1963, Nguyễn Văn Trỗi gia nhập tổ chức, trở thành chiến sĩ biệt động Sài Gòn và bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng.
Ngày 02/5/1964, anh xin tham gia nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi) để ám sát phái đoàn quân sự chính trị cao cấp của Chính phủ Mỹ do Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara dẫn đầu sang miền Nam Việt Nam sẽ từ sân bay Tân Sơn Nhất về Đại sứ quán Mỹ.
Đến tối thứ bảy 9/5/1964, khi đang đặt mìn dưới cầu Công Lý, anh Nguyễn Văn Trỗi không may sa vào tay bọn Ngụy Sài Gòn. Hôm sau, chúng giải anh về nhà, bảo anh chỉ chỗ giấu chất nổ. Anh khẳng khái trả lời: “Hôm qua tao đã nói là tao không biết. Còn nếu chúng mày cố tình muốn biết thì cứ đến nơi nào có bọn Mỹ sẽ thấy”.
Trở lại khám Chí Hòa nơi giam anh, chúng đưa vợ anh là Phan Thị Quyên và mấy người bạn anh vào để đối chất, tra xét. Anh nói với người vợ trẻ mới cưới 20 ngày: “Chúng ta không thể mong sống yên thân mà cúi đầu nhìn quân Mỹ tàn sát giết hại đồng bào. Em hãy cứng rắn lên, anh mong em vừa là người vợ vừa là đồng đội của anh”.
Ngày 05/8/1964, địch đưa anh ra tòa và kết án tử hình. Cả thành phố Sài Gòn biểu tình phản đối. Tận châu Nam Mỹ xa xôi, du kích Venezuela bắt cóc được trung tá Mỹ là Smolen làm con tin, đòi đổi mạng cho anh Trỗi. Nhưng Mỹ - Ngụy lật lọng, sau khi du kích Venezuela trả lại tự do cho Smolen, chúng lén lút xử bắn anh Trỗi một cách vội vã. Chúng thiết lập trường bắn ngay sau nhà lao Chí Hòa, hầu như không ai được biết trước. Thời khắc anh Trỗi bị hành hình đúng 11 giờ trưa ngày 15/10/1964, chị Quyên còn khấp khởi xách giỏ quà vào thăm chồng, bàng hoàng nhận hung tin khi chớm đến cổng nhà lao!
9 phút cuối đời của anh Nguyễn Văn Trỗi là 9 phút anh hùng, bất khuất khiến kẻ thù phải khiếp sợ, là niềm tự hào của nhân dân ta. Anh ra trường bắn trong bộ quần áo trắng tinh khiết chị Quyên mới đem vào mấy hôm trước. Khi một linh mục đến định rửa tội, anh từ chối: Tôi không có tội! Chính giặc Mỹ xâm lược mới là kẻ có tội. Địch dùng mảnh băng đen bịt mắt anh, anh giật ra: “Hãy để tôi nhìn lần cuối mảnh đất thân yêu của tôi!”. Năm tên lính đao phủ cầm súng lên đạn rôm rốp chuẩn bị bắn. Anh vẫn hiên ngang, dõng dạc hô: Hãy nhớ lấy lời tôi!/ Đả đảo đế quốc Mỹ! / Đả đảo Nguyễn Khánh! Hồ Chí Minh muôn năm!/ Hồ Chí Minh muôn năm! / Hồ Chí Minh muôn năm!”.
Bức ảnh và bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh Trưng bày trong Tuốcnickê 38, chủ đề 7, giai đoạn 1954-1969
Mười viên đạn từ 5 khẩu súng găm vào thân thể, anh dồn sức hô tiếp “Việt Nam muôn năm!” trước khi gục xuống.
Người công nhân ngành điện Nguyễn Văn Trỗi, quê xã Thanh Quýt (Điện Bàn-Quảng Nam), chiến sĩ biệt động, hy sinh ở tuổi 24 đang tràn đầy nhựa sống. Cả đô thành lại sục sôi. Nhiều người bỏ làm ăn buôn bán, học sinh bỏ học, đến thắp nhang viếng anh ở nghĩa trang Đô Thành (Thủ Thiêm). Ngày 22/10/1964, đúng một tuần sau khi anh hy sinh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thông báo quyết định tuyên dương liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi là “Anh hùng toàn miền Nam” và tặng thưởng Huân chương “Thành đồng Tổ quốc”.
Từ đó, hình ảnh anh Nguyễn Văn Trỗi in sâu trong tâm khảm nhân dân Việt Nam khắp hai miền Nam-Bắc. Trên tiền tuyến, mọi người chiến đấu với ý chí quyết chiến quyết thắng, xốc tới mạnh mẽ. Ở hậu phương, mọi người làm việc, sản xuất với tinh thần tiến công cách mạng, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ theo gương anh Trỗi.
Nhà thơ Tố Hữu trong một đêm sáng tác xong bài thơ dài “Hãy nhớ lấy lời tôi”, đăng lên báo Nhân Dân ngày 23/10/1964. Tác giả dành những lời trân trọng nhất nói về anh: Có những phút làm nên lịch sử/ Có cái chết hóa thành bất tử/ Có những lời hơn mọi lời ca/ Có con người như chân lý sinh ra/ Nguyễn Văn Trỗi/ Anh đã chết rồi/ Anh còn sống mãi/ Chết như sống, anh hùng, vĩ đại.
Tại căn cứ Miền, nhà văn Trần Đình Vân (Thái Duy), với sự cộng tác của chị Phan Thị Quyên, gấp rút hoàn thành truyện ký “Sống như Anh” nói về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng ngắn ngủi mà oai hùng của anh Trỗi. Khi tác phẩm được in và xuất bản tại Hà Nội, tự tay Bác Hồ đã viết trên trang đầu những dòng sau: “Vì Tổ quốc, vì nhân dân, liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống đế quốc Mỹ đến hơi thở cuối cùng. Chí khí lẫm liệt của anh hùng Trỗi là một tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước, nhất là cho các cháu thanh niên học tập”.